Compassion nên dịch là từ bi, trắc ẩn hay bi mẫn?

Compassion bắt nguồn từ compati nghĩa là “to feel pity,” gồm com “with, together” nghĩa là cùng, với + pati “to suffer” nghĩa là đau khổ, khổ nạn. Oxford định nghĩa “compassion”: strong feeling of sympathy for people who are suffering and a desire to help them. Còn theo Từ điển tâm lý học APA thì: “a strong feeling of sympathy with another person’s feelings of sorrow or distress, usually involving a desire to help or comfort that person. —compassionate adj.”

(Phân biệt giữa compassion và kindness, xem thêm: Compassion: Universally Misunderstood – Paul Gilbert, hoặc bản dịch tại đây.)

Trắc ẩn, 惻隱 Lấy làm bất nhẫn, thương xót (khi thấy người khác gặp điều bất hạnh).

Từ 慈, metta, tình yêu thương sâu đậm đối với chúng sinh và mong muốn đem đến hạnh phúc, an lạc cho chúng sinh. Tiếng Anh thường dịch là loving-kindness.

Từ ái: chỉ tình yêu thương nói chung.

(Sư Hộ Pháp phân biệt tình yêu thương nói chung, tức từ ái, là tình thương có điều kiện. Còn tâm từ, là tình thương vô điều kiện. Xem thêm http://www.budsas.org/uni/u-tamtu-hp/tamtuhp01.htm)

Metta, bắt nguồn từ mitta, nghĩa là bạn bè, có hàm nghĩa “thiện ý”, mong muốn tốt lành cho người khác. (Theo tác giả trong link dưới đây, mong muốn giúp đỡ còn có nghĩa là mong muốn người ta sẽ tự giúp mình. Xem thêm https://www.lionsroar.com/when-goodwill-is-better-than-love-the-meaning-of-metta/)

Bi 悲, karuna lòng thương xót trước nỗi khổ của chúng sinh và mong muốn xoa dịu, làm vơi bớt nỗi khổ đó.

Phân biệt “từ” và “bi”: Bi là giúp người bớt khổ, còn từ là giúp người thêm niềm vui, an lạc. (Karuna is the desire to remove harm and suffering (ahita-dukkha-apanaya-kāmatā) from others; while mettā is the desire to bring about the well-being and happiness (hita-sukha-upanaya-kāmatā) of others.)

Như vậy, xét một cách chặt chẽ về từ nguyên cũng như định nghĩa, compassion đồng nghĩa với karuna, tức lòng bi trong Phật giáo.

Chuyên mục:Chưa phân loại

WORKSHOP LIỆU PHÁP THUẬT: CHUYỂN HOÁ GIẬN DỮ

artists brushes

Bạn thường làm gì mỗi khi giận dữ?
• Để nó bùng phát ra, rồi sau đó cũng không thấy nhẹ nhõm gì?
• Hoặc là bạn cố gắng kiềm chế, rồi lại “giận lây” sang người khác?
• Hay bạn thường né tránh, cố gắng quên đi nhưng rồi những cảm xúc ấy vẫn quay trở lại, để rồi bạn lại còn cảm thấy tệ hơn?

Rõ ràng, những cách mà ta thường hành xử mỗi khi giận dữ có gì đó không thực sự ổn. Vậy liệu còn có cách nào khác nữa?

Workshop LIỆU PHÁP NGHỆ THUẬT: CHUYỂN HOÁ GIẬN DỮ trao cho bạn một cơ hội trải nghiệm:
• Giải tỏa năng lượng giận dữ của mình một cách sáng tạo
• Hiểu rõ hơn về những mong đợi, niềm tin, định kiến, thất vọng, sợ hãi… đằng sau cơn giận của chính mình
• Khám phá khả năng biểu hiện cảm xúc tiềm ẩn của tay trái qua việc viết và vẽ

Người hướng dẫn:
o Phạm Lê Hoàng Minh, thạc sỹ tâm lý học lâm sàng
o Đỗ Hoàng Tùng, admin trang VietPsychotherapy

Thời lượng: 180 phút

Thời gian: từ 09:00 đến 12:00 ngày 17/01/2016 (Chủ Nhật)
Địa điểm: Công ty CP Truyền thông & Sáng tạo Rio Việt Nam
Tầng 5, số 7 Ngõ 1160 Đường Láng (Ngõ Chùa Nền), Phường Láng Thượng, Quận Đống Đa, Hà Nội

Lệ phí tham dự: 300.000 đồng/người/ buổi (đã bao gồm: tài liệu, họa cụ và tea break)

Để đảm bảo chất lượng, số người tham dự tối đa là 10 người/buổi.

Đăng ký tại đây: https://goo.gl/7Qi39I

Ưu tiên xếp chỗ cho các bạn đăng ký và chuyển khoản thanh toán trước. Những bạn đăng ký muộn sẽ được xếp sang buổi sau (dự kiến vào ngày 24 hoặc 31/1/2016).

Chuyên mục:Chưa phân loại

“Critical thinking” nên dịch là gì cho đúng?

Tháng Tám 19, 2014 1 Bình luận

Chữ “critic” trong tiếng Anh bắt nguồn từ chữ “criticus” trong tiếng La-tinh nghĩa là “một vị thẩm phán, một nhà phê bình văn học” (a judge, literary critic). Đến lượt nó, chữ La-tinh này lại bắt nguồn từ chữ “kritikos” trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “có khả năng đưa ra ý kiến/ nhận định/ đánh giá”  (able to make judgments). Từ Hy Lạp này lại đến từ tự căn “krinein” nghĩa là “phân tách, quyết định” (to separate, decide).

Tính từ của “critic” là “critical” thường mang nghĩa phê phán, phê bình.. nên cụm “critical thinking” thường được người Việt Nam dịch là “tư duy phê phán”, “tư duy phản biện”. Nhưng tính từ làm thuộc ngữ “critical” ở đây để chỉ một loại hình tư duy (thinking) không hẳn là mang nghĩa “phê phán”. Ta hãy thử đọc một vài định nghĩa về khái niệm này.

  • The process of thinking carefully about a subject or idea, without allowing feelings or opinions to affect you.

http://dictionary.cambridge.org/dictionary/british/critical-thinking?q=critical+thinking

  • An ability to evaluate information and opinions in a systematic, purposeful, efficient manner.

highered.mcgraw-hill.com/sites/0070294267/student_view0/glossary_a-d.html

  • Critical thinking is a process that challenges an individual to use reflective, reasonable, rational thinking to gather, interpret and evaluate information in order to derive a judgment. The process involves thinking beyond a single solution for a problem and focusing on deciding what the best alternatives are.

http://www.ptc.edu/department_nursing/Philosophy.htm

Giáo sư triết học Nguyễn Quỳnh dịch là “Khả-năng Fân-tích và Fê-bình”. Người sáng lập trang Triết học Đường phố Nguyễn Hoàng Huy dịch “tư duy nhận xét”. Anh Làng Đậu dịch là “tư duy biện lý”. Về phần mình, tôi nghĩ, còn có thể dịch một cách giản dị là “óc suy xét.”

Chuyên mục:Chưa phân loại

Cảm giác bị bỏ rơi và các hệ lụy

Sự bỏ rơi, dù về mặt thân thể hay về mặt cảm xúc, đều trực tiếp ảnh hưởng tới sự sinh tồn của chúng ta. Đứa trẻ không được vuốt ve, xúc chạm đầy đủ sẽ cảm giác gần như là bị bỏ rơi, ngay cả khi được cung cấp những sự chăm sóc khác.

images (2)

Sự bỏ rơi đe dọa sự sinh tồn của chúng ta. Nó khiến chúng ta cảm thấy không được người khác quan tâm, và chúng ta nghi ngờ quyền được sống của mình. Nó dấy lên nỗi sợ hãi, thứ rất có thể ngăn cản sự phản hồi thích đáng trong các tình huống thông thường. Chẳng hạn, ở tuổi trưởng thành, nếu chúng ta sợ bị bỏ rơi, rất có thể chúng ta sẽ sợ nói ra những điều mình không thoải mái trong các mối quan hệ của mình, bởi chúng ta sợ sẽ bị bỏ rơi lần nữa. Hay rất có thể chúng ta chấp nhận sự bỏ rơi quá dễ dàng, và diễn giải những lời chỉ trích nhẹ nhàng nhất hay sự thay đổi tâm trạng của người yêu thành dấu hiệu cho thấy mình không được yêu thương, chăm sóc.

Sự bỏ rơi trong những năm đầu đời thường dẫn đến sự thịnh phát ở luân xa một. nó bù đắp thái quá [cho sự bỏ rơi] bằng sự bám chấp vào sự an toàn, thực phẩm, người thân/yêu, hay các lệ thường.

images

Bị người khác bỏ mặc cũng tạo nên khuynh hướng bỏ mặc bản thân. Chẳng hạn, Cindy bỏ dở bất cứ việc nào mà cô đang làm cho dù chỉ bị gián đoạn chút xíu.

Sự bỏ rơi làm xói mòn lòng tin cần có để phát triển cảm giác an toàn, hy vọng và tự tin. Nó làm suy yếu chính nền tảng bản ngã của chúng ta.

Nguồn: Anodea Judith, Eastern Body, Western Mind

Đỗ Hoàng Tùng dịch

Chuyên mục:Chưa phân loại

Lược khảo nguyên mẫu anh hùng – Phần III

Tháng Sáu 25, 2013 2 bình luận

Sự biến thái của nguyên mẫu anh hùng

Ở các phần trên đây, chúng ta mới chỉ bàn về sự phát triển theo hướng tích cực của nguyên mẫu anh hùng. Nhưng nếu không may mắn, gặp phải những điều kiện bất lợi từ chủ quan cũng như khách quan thì chúng sẽ phát triển một cách méo mó, tiêu cực. Jung cho rằng mỗi nguyên mẫu tích cực bao giờ cũng mặt trái tiêu cực, biểu hiện thành hai xu hướng: dương cương và âm nhu, được gọi là các hình thái bóng âm lưỡng cực (bipolar shadow forms). Theo Robert Moore và Douglas Gillette, hai nhà phân tích tâm lý theo trường phái Jung thì, trong trường hợp của nguyên mẫu anh hùng, hai hình thái tiêu cực là: người hung hăng và người hèn nhát. Bộ ba này được thể hiện theo dạng hình tam giác như minh họa sau đây (8).

Untitled

Nguồn: Robert Moore & Douglas Gillette, King Warrior Magician Lover

Đầu tiên là dạng người hung hăng, luôn sẵn sàng làm những việc liều lĩnh để chứng tỏ bản thân mình. Họ luôn cảm thấy mình ở đẳng cấp cao hơn và có quyền lấn át những người khác. Họ thường tự huyễn hoặc về sự quan trọng và khả năng của mình, luôn nghĩ rằng những nhiệm vụ bất khả thi là để dành cho mình… Nếu có ai đó tỏ ra nghi ngờ sự ngông cuồng của họ, thì họ sẵn sàng gây hấn. Bởi sâu thẳm bên trong tâm hồn mình, dạng người này luôn cảm thấy bất an và lo sợ. Những người này thường thiếu tinh thần đồng đội. Họ sẵn sàng hy sinh lợi ích của đồng đội để đạt được những mục tiêu điên rồ của mình. Nếu họ không ý thức được vấn đề tâm lý của mình, thì họ có thể trở nên tiêu cực và nguy hiểm hơn nữa.

Những kẻ bạo dâm, những tay giết người hàng loạt, những tên độc tài và chủ nghĩa phát xít trong lịch sử… đều có nguồn gốc từ sự biến thái tâm lý nói trên. Các nhà phân tâm học gọi họ là những kẻ hảo ác (sadist). Họ làm mọi việc tàn độc nhất với những người khác cũng chỉ là để chạy trốn sự hoảng loạn trong tâm hồn mình, hay đôi khi là để tìm kiếm một sự sung sướng bệnh hoạn. Vậy nên, ở một khía cạnh nào đó, dạng người mà cả xã hội ghê tởm và nguyền rủa này cũng rất đáng thương.

Ngược lại với dạng người hung hăng là dạng người hèn nhát. Đây là những kẻ không bao giờ dám khẳng khái đứng lên tranh đấu cho điều gì, thậm chí cho cả bản thân mình. Họ luôn tìm cách lảng tránh các cuộc tranh cãi, đụng độ. Thường là họ bị người khác lấn át, bắt nạt. Tuy nhiên, con giun xéo lắm cũng quằn, đến khi không chịu đựng được nữa, thì tay anh hùng bất mãn tiềm ẩn đằng sau người hèn nhát sẽ bất ngờ vùng dậy, có những lời nói và hành vi thô bạo với “kẻ thù” của mình. Cho Seung-hui, kẻ sát nhân hàng loạt người Mỹ gốc Hàn vào tháng 4 năm 2007 là một trường hợp minh họa điển hình cho quan điểm này.

Mức độ biến thái cao hơn của dạng này là những người tự hành hạ bản thân mình để tìm kiếm cảm giác thoải mái hay giải tỏa, thuật ngữ chuyên môn gọi là những kẻ tự hành (masochist). Nghe thì có vẻ lạ nhưng thực ra chúng ta ra rất hay gặp dạng người này. Họ là những kẻ nghiện ngập. Đối tượng gây nghiện có thể rất đa dạng như thuốc lá, ma túy, tình dục, người yêu, công việc… Họ biết rằng những thứ đó có hại cho họ, nhưng họ vẫn không thể ngừng lại được. Và cái mặt trái của nguyên mẫu anh hùng này cứ dần đần hủy hoại cả sức khỏe lẫn tinh thần của họ.

Nuôi dưỡng nguyên mẫu anh hùng tích cực

Luận sư Osho từng nói đại ý rằng: Năng lượng trong con người nếu không đi lên theo hướng sáng tạo thì sẽ đi xuống theo hướng hủy diệt. Nguồn năng lượng của các nguyên mẫu cũng thế. Nếu được phát triển thăng hoa, nguyên mẫu anh hùng sẽ giúp con người trở nên mạnh mẽ và trưởng thành, làm nên những điều tốt đẹp cho cộng đồng, thì tự động các mầm mống tiêu cực, biến thái sẽ bị thui chột. Giống như trên cánh đồng, khi lúa đã mọc thì cỏ rất khó phát triển vậy.

Theo Ken Wilber, trong con người có ba trung tâm năng lượng quan trọng là vùng đầu (hay não bộ), vùng ngực (hay trái tim) và vùng bụng dưới (hay đan điền) (8). Tương ứng với ba trung tâm này là tiến trình ba giai đoạn tâm-sinh-vật lý chi phối mọi hoạt động của con người. Tiến trình này luôn bắt đầu từ suy tư và mường tượng, sau đó mới phát sinh cảm xúc, rồi cuối cùng sẽ biến thành hành động. Bộ ba này có mối liên kết với nhau rất chặt chẽ. Ở vùng đầu, nếu tập trung quá nhiều năng lượng sẽ thường phân tán, ảo tưởng, còn nếu quá ít năng lượng thì suy nghĩ ngây thơ, đơn giản. Ở vùng ngực, nếu thiếu hụt năng lượng thì sống vô cảm, nếu quá nhiều năng lượng thì lại nhạy cảm, dễ mất kiểm soát. Ở vùng bụng dưới, nếu thiếu năng lượng thì ý chí không vững vàng, thiếu lòng dũng cảm, nếu tập trung quá nhiều năng lượng ở đây thì    lại dễ rơi vào dạng hữu dũng vô mưu. Vì vậy, chỉ có sự cân bằng của ba trung tâm mới sẽ giúp cho nguyên mẫu anh hùng thăng hoa, phát triển đúng đắn.

–          Ta hãy bắt đầu từ trí não với sức mạnh của mường tượng:

Zeno Franco và Philip Zimbardo, hai nhà nghiên cứu về chủ nghĩa vị tha và anh hùng, khuyên chúng ta nên đặt ra các câu hỏi về trách nhiệm xã hội của bản thân trước các vấn đề mà mình đang phải đối diện cũng như những gì đang diễn ra xung quanh trong cuộc sống hằng ngày (9). Thường xuyên tự vấn lương tâm như vậy chính là cách để tưới tẩm cho những hạt giống của nguyên mẫu anh hùng trong tâm hồn bạn. Chúng sẽ kích thích trí tưởng tượng của bạn, giúp bạn mơ mộng về những điều bạn có thể làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Từ đó, bạn mới xây dựng được cho mình một tầm nhìn tích cực, một lý tưởng cao đẹp để không ngừng hướng tới. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển của hạt giống anh hùng trong tâm hồn. Trong những gian lao, thử thách, điều giúp người ta vượt lên được các giới hạn thể xác chính là những tầm nhìn, lý tưởng mà họ theo đuổi. Những người tù cộng sản ở Côn Đảo là một minh chứng hùng hồn cho luận cứ này.

–          Tiếp đến là trái tim với sức mạnh của cảm xúc:

Một bầu nhiệt huyết sôi sục là điều không thể thiếu trong trái tim của một người anh hùng. Tầm nhìn của một người càng rõ ràng, sinh động bao nhiêu thì cảm xúc của người đó sẽ càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Cảm xúc phát ra từ vùng tâm não có sức mạnh lớn lao hơn suy nghĩ thông thường rất nhiều lần. Theo nghiên cứu của viện HeartMath thì từ trường của vùng tim mạnh gấp 5000 lần so với từ trường của não bộ, còn điện trường mạnh gấp 100 lần so với điện trường của não bộ. Nếu như sức mạnh của mường tượng tạo nên một viễn cảnh để người anh hùng cố gắng vươn tới, thì sức mạnh của cảm xúc chính là động cơ thúc đẩy họ không lùi bước, kiên gan bền chí với lý tưởng của mình. Nhìn lại lịch sử Việt Nam, ta thấy rằng có lẽ chính nhờ lòng yêu nước nồng nàn đã nuôi dưỡng ý chí phản Hán phục Việt qua gần 1000 năm Bắc thuộc, để cuối cùng vào năm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giành lại chủ quyền dân tộc.

–          Cuối cùng là đan điền với sức mạnh của nội lực:

Tâm lý và thể chất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn người hay suy nghĩ sẽ bị bệnh đau dạ dày. Ngược lại, người bị đau dạ dầy thường hay suy nghĩ lan man. Thế nên, một thân thể yếu đuối khó có thể  là nơi cư ngụ của một tâm hồn cao cả. Dù có ý chí lớn lao đi nữa, nhưng nếu bạn không có sức khỏe thì cũng chỉ là một người lực bất tòng tâm mà thôi. Vậy nên, bạn cần cố gắng rèn luyện để có sức khỏe tốt. Lời khuyên của người viết là bạn nên theo đuổi một bộ môn võ thuật có sự rèn luyện tích lũy nội lực của phương Đông. Chảng hạn như Thiếu Lâm, Võ Đang, Thái Cực, Vịnh Xuân… Bởi không giống các môn thể thao phương Tây hầu như chỉ để rèn luyện cơ bắp, các môn võ trên còn rèn luyện cho người ta có được sự dẻo dai phi phường, ý chí kiên nhẫn và sự tập trung cao độ. Mà đây lại là ba yếu tố cực kỳ cần thiết đối với một người anh hùng. Tìm hiểu về cuộc đời của tổng thống Nga Putin, ta thấy ông đã có một nền tảng sức khỏe và tinh thần rất tốt nhờ nhiều năm rèn luyện Judo.

Tạm kết

Ở phương Tây, khái niệm nguyên mẫu anh hùng đã trở nên tương đối phổ biến trong xã hội trong vài thập kỷ qua. Còn ở Việt Nam, còn quá ít người biết đến khái niệm này. Đó quả là một điều rất đang tiếc bởi đây là một nguồn năng lượng rất mạnh mẽ trong tâm hồn người Việt. Biểu hiện rõ nét nhất là trong văn hóa của chúng ta có truyền thống thờ anh hùng dân tộc. Đó chính là cách mà cha ông chúng ta nuôi dưỡng, thắp lửa cho nguyễn mẫu anh hùng trong tâm hồn các thế hệ con cháu. Tiếc rằng ngày nay, truyền thống này đa phần chỉ còn nặng về phần nghi lễ mà lại mất đi ý nghĩa giáo dục quý giá của nó. Chính sự thiếu hiểu biết về tầm quan trọng của việc khơi dậy nguyên mẫu anh hùng trong giới trẻ đã dẫn đến nhiều vấn đề nhức nhối đang hằng ngày diễn ra. Chẳng hạn sự thờ ơ, lãng đạm trước cái xấu, cái ác của thế hệ trẻ – một thực trạng đáng báo động trong xã hội ta, là biểu hiện của sự thui chột của nguyên mẫu anh hùng trong tâm hồn con người. Hay việc mỗi đêm, hằng trăm thanh niên quay cuồng trong các sàn nhảy, phóng xe điên rồ trên đường phố là biểu hiện của hình thái tự hành, khi họ không dám/biết cách đối diện với những vấn đề trong cuộc sống của mình. Hay việc ngày càng có nhiều đối tượng vị thành niên hảo ác với những hành vi rất manh động, táo tợn. Đa số các em nhỏ này đều là những nạn nhân của bạo hành gia đình – điều kiện tất yếu tạo nên tính hung hăng của trẻ… Thiết nghĩ đã đến lúc cộng đồng nói chung, các nhà giáo dục và các bậc phụ huynh nói riêng cần quan tâm nhiều hơn đến việc nuôi dưỡng nguồn năng lượng của nguyên mẫu anh hùng trong các thế hệ tương lai. Chúng ta phải làm sao để các bạn trẻ hiểu rằng bên trong con người họ có một vốn quý mà họ có thể khai thác để tạo nên những điều tốt đẹp, những thay đổi kỳ vĩ cho cho cuộc đời mình và mọi người xung quanh. Và thông qua hành trình đó, các bạn trẻ sẽ tìm được ý nghĩa cuộc đời và mãn nguyện.

Chú thích:

 7. Robert Moore,  Douglas Gillette, King Warrior Magician Lover

8. Ken Wilber, đã dẫn, trang 185

9. Zeno Franco, Philip Zimbardo, The Banality of Heroism

Chuyên mục:Chưa phân loại

Lược khảo nguyên mẫu anh hùng – Phần II

Tháng Sáu 21, 2013 1 Bình luận

Năm cấp độ anh hùng  

Ken Wilber, triết gia sáng lập học thuyết Dung Hợp (Integral Theory) cho rằng sự phát triển đạo đức của con người có thể chia làm bốn giai đoạn: vị ngã (egocentric), vị chủng (ethnocentric), vị thế giới (worldcentric) và vị pháp giới (kosmoscentric) (5). Bốn giai đoạn này phản ánh sự mở rộng của nhận thức và mối quan tâm của con người. Từ chỗ chỉ lo nghĩ tới bản thân (vị ngã), tới những người xung quanh và cùng dòng giống với mình (vị chủng), tới xa hơn nữa là tất cả nhân loại (vị thế giới) và cực điểm, là tới toàn bộ chúng sinh muôn loài (vị pháp giới). (Theo Ken Wilber thì “kosmos” là thuật ngữ của Pytagore để chỉ toàn thể vũ trụ trong tất cả các chiều kích của nó như vật lý, cảm xúc, tinh thần và tâm linh. Như thế, “kosmos” tương ứng với khái niệm “pháp giới” của Phật giáo.)

Theo Wilber thì đây là các giai đoạn tất yếu mà mỗi người sẽ phải trải qua, không có giai đoạn nào là xấu xa hay sai trái cả. Mỗi giai đoạn đều là một hệ quả tự nhiên và có quyền tồn tại. Mỗi giai đoạn đều đúng ở một mức độ nào đó, nhưng giai đoạn cao hơn thì độ đúng đắn sẽ nhiều hơn. Bao giờ giai đoạn sau cũng vừa siêu việt vừa bao hàm giai đoạn trước. Và vị pháp giới, giai đoạn thứ tư chưa phải là giai đoạn tối hậu, bởi có thể có những giai đoạn thậm chí cao hơn nhưng chưa xuất hiện.

Theo tôi, tương ứng với các cấp độ đạo đức trên là năm cấp độ anh hùng: anh hùng việt ngã, anh  hùng vị tha, anh hùng dân/chủng tộc, anh hùng nhân loại và anh hùng pháp giới. Tiêu chí để phân cấp là mức độ vượt ra khỏi vòng cương tỏa của cái tôi. Hay nói như Joseph Campbell thì: “Anh hùng là người dâng hiến cuộc đời mình cho điều gì đó lớn lao hơn chính bản thân họ.” (A hero is someone who has given his or her life to something bigger than oneself.) Quả thật, đó có lẽ là điểm khác biệt lớn lao nhất giữa người anh hùng và một người bình thường. Chính vì “điều gì đó lớn lao hơn chính bản thân họ” mà người anh hùng mới có thể có ý chí, lòng dũng cảm phi thường để vươn lên trước khó khăn, nghịch cảnh. Bởi ý chí, lòng dũng cảm phi thường đâu có bao giờ xuất hiện ở những tâm hồn hẹp hòi, ích kỷ, chỉ lo vinh thân phì gia.

Anh hùng việt ngã là người mà bằng ý chí và nỗ lực phi thường đã vượt qua những nghịch cảnh mà cuộc sống đem đến cho mình. Tự bản thân họ chính là người anh hùng trong câu chuyện về chính cuộc đời họ. Tuy nhiên, không phải chỉ có Lance Armstrong mới là anh hùng khi chiến thắng bệnh ung thư để thành nhà vô định đua xe đạp thế giới, mà bất cứ ai vượt qua được các rào cản tâm lý của mình, thì cứ mỗi lần như vậy, người ta sẽ cảm thấy tự tin hơn về bản thân và mạnh bạo hơn trước cuộc đời. Chẳng hạn, một bé trai dám ở  lại trong ngõ vắng để cảm nhận và vượt qua nỗi sợ bóng tối. Lòng can đảm thôi thúc em bé làm điều đó chính là biểu hiện của năng lượng của nguyên mẫu anh hùng nằm trong tâm hồn mỗi người.

Anh hùng vị tha là người đã bắt đầu biết cách hóa giải sự chi phối của cái tôi nhỏ bé để sống vì người khác. Họ sẵn lòng làm những việc mà những người vị kỷ cho rằng “không phải phận sự của mình”. Dạng anh hùng này ta hay bắt gặp trong cuộc sống, chẳng hạn như thầy giáo Đỗ Việt Khoa một mình chống lại tiêu cực trong kỳ thi tốt nghiệp phổ thông. Hay đó có thể là các “hiệp sỹ đường phố” sẵn sàng liều mình bắt cướp cứu người, người ngụ cư trên sông chuyên vớt xác người chết đuối trôi sông, người lầm lũi đi nhặt đinh rải trên đường quốc lộ… Họ đều có cuộc đời bình dị như bao người khác, nhưng việc làm của những anh hùng thầm lặng này lại khiến ta phải kính cẩn cúi đầu tỏ lòng ngưỡng mộ. Anh hùng vị tha là giai đoạn “quá độ” chuyển tiếp giữa hai cấp độ đạo đức: từ vị ngã đến vị chủng.

Anh hùng dân/chủng tộc thường là người có công kiệt xuất trong cuộc đấu tranh cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc, được nhân dân suy tôn và lịch sử dân tộc ghi nhận. Anh hùng dân tộc thường xuất hiện ở bước ngoặt lịch sử của dân tộc (thời đại), trở thành biểu tượng và niềm tự hào bất diệt của dân tộc. Như Nelson Mandela với người da đen là một ví dụ.

Anh hùng nhân loại thì mở rộng tấm lòng mình xa hơn khỏi giới hạn quốc gia hay dân/chủng tộc. Đó thường là người sống với những lý tưởng cao đẹp vì nhân loại nói chung như tự do, công bằng, dân chủ… Đặc điểm chung của những con người này là họ luôn hiện thân cho những gì họ họ tin tưởng. Thánh Gandhi và Che Guevara là hai ví dụ điển hình.

Anh hùng pháp giới là người đã đạt tới trạng thái vô ngã và có lòng đại bi. Người đó coi tất cả chúng sinh đều như một phần của con người mình, không có bất kỳ sự ngăn cách hay phân biệt nào. Vì vậy, mối quan tâm và hành động của người đó luôn hướng về lợi ích của muôn loài hữu tình. Trong Phật giáo Đại thừa, những bậc như thế được gọi là Bồ-tát. Chẳng hạn như Bồ-tát Địa Tạng vời lời nguyện chừng nào còn chúng sinh trong địa ngục, chừng đó còn chưa thành Phật.

Anais Nin từng nói rằng: “Cuộc đời co hẹp hay mở rộng tương ứng với lòng dũng cảm của mỗi người.” (Life shrinks or expands in proportion to one’s courage.) Năm cấp độ anh hùng kể trên là các giai đoạn đi từ cuộc đời nhỏ hẹp đến cuộc đời rộng mở, từ hữu hạn đến vô hạn. Đó là hành trình mà mỗi người đều phải trải qua để phát triển đạo đức, tâm linh của mình.

 graphictwo

Hành trình của người anh hùng

Sau khi nghiên cứu nguyên mẫu anh hùng trong thần thoại, sử thi và truyện cổ tích của các dân tộc trên thế giới, Joseph Campbell đã công bố tác phẩm Anh hùng muôn mặt (The Hero with a Thousand Faces) vào năm 1949. Công trình kinh điển này đã có sự ảnh hưởng sâu rộng đến các ngành như văn chương, điện ảnh và kịch nghệ… cho tới tận ngày nay. Nhưng tại sao hết Jung, rồi đến Campbell lại phải tìm về truyện cổ tích, thần thoại? Bởi theo Campbell thì: “Thần thoại là một lỗ hổng bí mật mà thông qua đó, năng lượng bất tận của vũ trụ xâm nhập vào con người.” (Myth is the secret opening through which the inexhaustible energies of the cosmos pour into human manifestation.) Ông cũng có nhận xét rất sâu sắc rằng: “Thần thoại là giấc mơ chung của cộng đồng, còn giấc mơ là thần thoại của riêng mỗi người.” (Myths are public dreams. Dreams are private myths.)

Trong các truyện thần thoại, ta thường thấy nổi bật lên các nhân vật anh hùng. Mặc dù cuộc đời của họ có thể được diễn biến theo rất nhiều cách khác nhau, nhưng theo Campbell thì hành trình của bất cứ người anh hùng nào cũng phải trải qua ba giai đoạn chính. Đó là rời quê hương, đi lưu lạc và quay trở về. Chẳng hạn như sự tích dưa hấu về người “anh hùng” Mai An Tiêm cũng đi qua ba giai đoạn như vậy. Chàng vốn xuất thân nô lệ, nhưng nhờ có tài nên được vua Hùng yêu mến, cho hưởng nhiều vinh hoa phú quý, lại gả cho con gái. Nhưng rồi do lời sàm tấu của vài viên quan hầu cận nhà vua, chàng cùng vợ bị đầy ra hoang đảo. Đây chính là giai đoạn rời bỏ quê hương. Đến đảo hoang, hai vợ chồng sống ở đảo đầy gian khó, may nhờ phát hiện ra giống dưa ăn vừa ngọt vừa mát nên làm ăn khấm khá. Quãng thời gian này tương ứng với giai đoạn lưu lạc và vượt qua khó khăn. Cuối cùng, hai vợ chồng chàng lại được đức vua gọi trở về đất liền, cho phục hồi lại chức cũ… Kết thúc có hậu này được gọi là giai đoạn hồi hương.

Tuy nhiên, trong tác phẩm của mình, Campbell không chỉ vạch ra ba giai đoạn như trên, mà ông còn tổng kết lại những sự kiện chính trong hành trình điển hình của hầu hết các người anh hùng. Theo Campbell thì nguyên mẫu anh hùng thường hay có một xuất thân khác thường. Trong bối cảnh cuộc sống an phận thủ thường, yên bình nhưng tẻ nhạt, người anh hùng sẽ nhận được lời mời gọi bước vào cuộc sống mới mẻ, đầy thử thách và hiểm nguy. Lúc đầu, người anh hùng có thể từ chối, bởi chàng hồ nghi về chính khả năng của mình, và chàng cũng sợ hãi. Bởi nếu người anh hùng chấp nhận lời mời gọi này, thì chàng sẽ phải đối mặt với những nhiệm vụ rất gian nan, thử thách, thậm chí nguy hiểm tới tính mạng. Nhưng rồi, lắng nghe tiếng gọi từ nội tâm sâu thẳm, chàng sẽ chấp nhận bước vào hành trình phiêu lưu mà định mệnh mang tới cho mình. Thường thì, người anh hùng sẽ kỳ duyên được các cao nhân dạy dỗ. Khi khó khăn họa nạn, chàng được bạn bè giúp đỡ, hay được những may mắn lạ lùng của số phận. Sau vô vàn khó khăn vất vả, có những lúc chiến thắng, cũng như những lúc thất bại. Và nếu vượt qua tất cả, người anh hùng có thể nhận được phần thưởng là kho báu vật chất hoặc tinh thần (sự phát triển tâm linh). Sau đó, họ phải quyết định xem có quay trở về quê hương hay không. Thông thường, họ sẽ gặp những khó khăn thử thách trên hành trình này. Nếu họ trở về thành công, họ có thể sẽ sử dụng kho báu của mình sẽ cải tạo, giúp thế giới trở nên tốt đẹp hơn.

thanhgiong_1022010_14640

Nguyên mẫu anh hùng Thánh Gióng

Trong kho tàng cổ tích Việt Nam, có thể coi Thánh Gióng là một nhân vật anh hùng tương đối điển hình. Nhân vật này phần nào phản ánh những đặc trưng của nguyên mẫu anh hùng trong vô thức tập thể của người Việt. Đầu tiên là hình ảnh “thằng bé lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm ngửa đòi ăn, không biết ngồi biết lẫy, cũng không biết nói biết cười gì cả.” Gạt sang một bên bức màn huyền thoại, theo Trần Đại Sỹ thì thực ra, “Phù-đổng Thiên-vương là một võ sư đương thời. Ngài luyện võ, nên gần như không nói với ai, người đời đùa rằng ngài câm.” (6) Trên phương diện tâm linh, HT Thích Trí Quảng cho rằng đây là hỉnh ảnh “tiêu biểu cho đời sống nội tâm, hay sức sống thiền định tiềm ẩn bên trong là sức mạnh tinh thần.” (7) Trên phương diện phân tâm học, người viết cho rằng, “thằng bé lên ba tuổi” đó chính là biểu tượng cho nguồn năng lượng của nguyên mẫu anh hùng vốn luôn tàng ẩn trong tâm hồn của mỗi con dân đất Việt. Nó có vẻ thụ động thật đấy, im hơi lặng tiếng thật đấy nhưng đó là vì chưa đủ duyên, chưa gặp phải thời điểm thích hợp nên nó chưa thể hiện ra tiềm năng mạnh mẽ của mình. Cũng giống như người nông dân xưa, bình thường luôn hiền hậu, chất phác, sống vui vẻ mà an phận.

Theo Trần Đại Sỹ thì đến năm 24 tuổi, Phù-đổng Thiên-vương ứng lời gọi của vua đi đánh giặc Ân. Còn hình ảnh cậu bé Gióng ăn không biết no, lớn nhanh như thổi, vươn vai một cái, người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng… trong truyện thì dưỡng như mang ý nghĩa khác. Nó biểu trưng cho sức mạnh nội lực một khi đã đủ duyên, được kích hoạt sẽ tạo nên sự biến đổi mang tính lột xác. Có lẽ chính nhờ nguồn năng lượng mạnh mẽ này của nguyên mẫu anh hùng mà nhân dân ta đã đánh bại được những kẻ thù hùng mạnh nhất trong các cuộc chiến trang vệ quốc anh hùng.

Trần Đại Sỹ cho biết “khi hết giặc ngài lên núi Sài-sơn ẩn thân tiêu dao mây nước, tập võ” và trở thành sáng tổ của phái võ Sài-sơn. Như tâm thức tập thể của dân gian lại tạo ra một hình ảnh đẹp đẽ và huyền nhiệm hơn thế nhiều. “Sau khi đánh giặc xong, Thánh Gióng cởi giáp bỏ nón lại (trên đỉnh núi), rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.” Nó thể hiện tinh thần vô vi của Lão tử, “làm mà không cậy công”, “xong việc rồi không ở lại”. Đó đúng là tấm lòng vị tha vô ngã của vị anh hùng – bồ tát vậy.

(Còn tiếp phần 3.)

Chú thích:

5. Ken Wilber, Terry Patten, Adam Leonard, Marco Morelli, Integral Life Practice, trang 80

6. Trần Đại Sỹ, Anh hùng Lĩnh Nam

7. Thích Trí Quảng, Huyền thoại Thánh Gióng và Phật giáo

Chuyên mục:Chưa phân loại

Lược khảo nguyên mẫu anh hùng – Phần I

blueprint-edition-08-banner-everyday-hero

Nhập đề

Trong một buổi nói chuyện trên chương trình TED, Candy Chang kể rằng: Khi được hỏi: “Trước khi từ giã cõi đời này, bạn muốn làm gì?” (1) Có người đã đáp rằng: “Tôi muốn thử ăn cướp.” Câu trả lời ngổ ngáo này khiến một số người bật cười, một số khác thì nhăn mặt. Tuy nhiên, dưới góc nhìn tâm lý, nó hé lộ cho ta thấy một điều đầy ý nghĩa về tâm hồn con người. Có lẽ người nói ra câu trả lời trên không phải thực sự muốn đi ăn cướp mà “thử ăn cướp” chỉ là một hình ảnh bột phát mang tính biểu tượng của vô thức cho một sự kiện hiểm nguy, kịch tính nào đó trái ngược với cuộc sống hằng ngày trôi qua đều đều, tẻ nhạt. Và đó không phải là một trường hợp ngoại lệ. Thử hỏi trong cuộc đời mình, ai trong chúng ta lại chẳng có những phút giây bồng bột, muốn làm cái gì đó anh hùng, quái dị. hay thậm chí điên khùng? Và nếu phiêu lưu, mạo hiểm không có ý nghĩa gì với chúng ta, thì tại sao hầu hết chúng ta lại thích xem các bộ phim về cuộc đời những vị anh hùng liệt nữ? Hay tại sao người ta lại cứ thích vượt qua chơi những môn thể thao mạo hiểm như leo núi, đua xe? Bởi vì chỉ có những lúc ấy người ta mới cảm thấy có một nguồn năng lượng nào đó vốn ẩn tàng trong tâm hồn bỗng nhiên được giải phóng ra, giúp con người họ trở nên tỉnh táo, sáng suốt và tràn đầy sức sống. Và khi trải qua rồi, người ta lại cảm thấy mình mạnh mẽ hơn, trưởng thành hơn. Nguồn năng lượng đó tương ứng với cái được nhà tâm lý Carl Jung gọi là nguyên mẫu anh hùng.

Từ khái niệm “nguyên mẫu”

Nguyên mẫu (mẫu hình nguyên thủy), hay một số người còn dịch là cổ mẫu, siêu mẫu, hay nguyên tượng, siêu tượng đều bắt nguồn từ thuật ngữ “archetype”. Đọc là “a-kit-tai-pờ”. Theo ngữ căn La-tinh, “arche” có nghĩa là cái bắt đầu, khởi đầu, hay nguyên bản; còn “type” có nghĩa là khuôn mẫu, kiểu mẫu hay mô hình. Theo Jung thì, “archetype” hay nguyên mẫu là “các hình tượng cổ xưa phát xuất từ trong vô thức tập thể.” (Ancient or archaic images that derive from the collective unconscious.) Các nguyên mẫu này thường được biểu hiện ra như là những nhân vật điển hình, những nét tính cách đặc trưng được tìm thấy trong mọi nền văn hóa. Chẳng hạn như nguyên mẫu người hùng, bà phù thủy, kẻ lưu manh, anh hề… “Đó là những chủ đề đã tồn tại rất lâu trong tâm thức tập thể (collective soul), thể hiện những khát khao, tưởng tượng, và ước vọng sâu kín nhất của tâm thức tập thể. Những đề tài này còn mãi với thời gian. Ta bắt gặp nó trong văn chương của mọi thời đại. Nó thay hình đổi dạng tùy theo từng thời kỳ lịch sử, nhưng cốt lõi của nó vẫn là một.” (2)

Thực ra để hiểu khái niệm nguyên mẫu, thiết tưởng chúng ta cũng cần phải hiểu thêm một chút về khái niệm “vô thức tập thể”. Jung định nghĩa: “Vô thức tập thể là kinh nghiệm lắng đọng ngàn dời trong tâm hồn nhân loại.” Bùi Lưu Phi Khanh giải thích: “Vô thức tập thể theo quan niệm của Jung là phần sâu nhất của tâm thần quyết định số phận cá nhân cũng như xã hội. Nó là nơi lưu trữ kinh nghiệm của chúng ta với tư cách là một loài, đó là những tri thức mà khi sinh ra chúng ta đã có sẵn, mang tính tiên nghiệm và không phụ thuộc vào môi trường hay hoàn cảnh…” “Có thể nói không sai rằng toàn bộ cổ mẫu chính là nội dung của vô thức tập thể, hay so sánh một cách đơn giản hơn, vô thức tập thể là một vòng tròn bao quanh tất cả các cổ mẫu.” (3)

Và khái niệm “anh hùng”…

Nhìn chung, khái niệm anh hùng được hiểu tương đối giống nhau qua các thời kỳ lịch sử và nền văn hóa. “Heros”, từ để chỉ anh hùng theo tiếng La-tinh có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ, có nghĩa đen là canh giữ hay bảo vệ. Thần thoại Hy Lạp thì coi anh hùng thường là bán thần (demi-god), con của một vị thần bất tử và một người phàm tục. Về mặt lịch sử, trong các cuộc chiến tranh, một người anh hùng có thể xuất thân từ bất kỳ địa vị nào. Các nhân vật này, dù trong thần thoại hay lịch sử, đều đã đối mặt với nguy hiểm và nghịch cảnh, hay trong hoàn cảnh thân cô thế yếu, bằng lòng dũng cảm và ý chí kiên cường, thậm chí không ngại hy sinh thân mình vì sự lợi ích chung của dân tộc hay nhân loại.

Những năm gần đây, khái niệm “anh hùng” không còn giới hạn trong đề tài chiến tranh, mà còn để chỉ những cá nhân có những hy sinh, những hành động quả cảm vì người khác ngay trong đời sống hằng ngày, dù đó có thể chỉ là những hành động mang tính cách anh hùng chợt vụt sáng của một phó thường dân. Thực ra, chúng ta có thể đi xa hơn nữa, để mở rộng khái niệm này tới những người vượt qua những éo le của số phận, những hoàn cảnh đầy đau thương và bất hạnh để được như những người bình thường khác. Đó có thể là Nick Vujicic, anh chàng tuy cụt chân cụt tay đã trở thành diễn giả truyền cảm hứng cho biết bao bạn trẻ hay chị Phạm Bích Lan, người mắc bệnh loạn dưỡng cơ nhưng vẫn cố gắng trở thành một dịch giả của hơn 20 đầu sách văn học. Với những gì họ đã trải qua và đã làm được, họ đều là anh hùng trong chính câu chuyện về cuộc đời họ.

Hẳn có người sẽ băn khoăn rằng, việc “phong anh hùng” như vậy liệu có phải là bừa bãi hay không? Làm như thế, liệu chúng ta có làm “tầm thường hóa” khái niệm anh hùng hay không? Xin thưa, không! Nếu chúng ta thực sự hiểu bản chất của khái niệm này. “Anh hùng” chính là sự chiến thắng, vượt ra khỏi vòng cương tỏa của cái tôi nhỏ bé. Trước hết, đó là những giới hạn, khó khăn hay cám dỗ mà mình trước đây hay những người khác không làm được. Cũng rất thường xuyên, đó là cuộc chiến giữa thiện – ác, tiểu nhân – quân tử trong nội tâm mỗi người. Và cuộc chiến đó thậm chí còn thử thách và gian khổ hơn nhiều so với những cuộc chiến ngoài đời. Đạt được chiến thắng từ cuộc chiến đó là điều vô cùng vinh quang, nên đức Phật mới nói: “Đánh thắng vạn quân, không bằng tự thắng lòng mình.” Sau đó mới đến các thử thách hay cuộc chiến với thế giới bên ngoài… Hiểu được như vậy rồi, ta sẽ thấy ai cũng có thể trở thành anh hùng, và cuộc sống luôn đem đến cho ta những cơ hội để trở nên “anh hùng hơn” so với ngày hôm qua. Đó là một hành trình mà ta khó có thể biết đâu là điểm dừng chân cuối cùng.

… Đến khái niệm “nguyên mẫu anh hùng”

Nói một cách đơn giản, thì nguyên mẫu anh hùng là tiềm năng trở nên anh hùng trong mỗi tâm hồn chúng ta, là những chủng tử (hạt giống) của “dòng máu anh hùng” vốn có sẵn trong tâm địa (mảnh đất tâm thức) của chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, các hoạt động mà ta tham dự và các kinh nghiệm mà ta trải qua sẽ là những nhân duyên góp phần làm nảy nở những chủng tử ấy, giúp chúng từ vô thức trồi lên bề mặt ý thức. Ta có thể dễ dàng nhận diện ra chúng qua một số những ý tưởng và sắc thái cảm xúc rất đặc trưng. Chẳng hạn như nguồn năng lượng khuyến khích chúng ta vượt qua, chiến thắng cái tôi nhát gan và yếu đuối để trải qua khó khăn, thử thách để trở thành một người dũng cảm, mạnh mẽ và tự tin hơn. Các chủng tử ấy kêu gọi chúng ta mạo hiểm, thậm chí liều lĩnh bước vào những chuyến phiêu lưu mà cuộc đời đưa tới. Như cách nói đầy hình tượng của Neale Donald Walsch: “Cuộc sống [chỉ thực sự] bắt đầu khi bạn bước ra khỏi vùng an toàn của mình.” (Life begins at the end of your comfort zone.) Giống như Frodo Baggins, chàng người lùn Hobbit bước vào chuyến hành trình phiêu lưu cùng chiếc nhẫn quyền lực trong tiểu thuyết Chúa Nhẫn của nhà văn J.R.R Tolkien. Hay nguồn năng lượng thôi thúc chúng ta hành động dũng cảm, dám sống hết mình vì chân thiện mỹ, vì hạnh phúc của người khác cũng là một biểu hiện rõ nét của nguyên mẫu anh hùng. Ở mức độ phát triển cao của nguyên mẫu này, người anh hùng sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng mà mình theo đuổi. Trong lịch sử, ta có thể thấy rõ tính anh hùng trong hành động sẵn sàng chấp nhận cái chết của Chúa Jesus hay Socrates.

Chú thích:

1. Candy Chang, Before I die

2. Đào Chính, Đoan Nghiêm, Đối thoại nội tâm, trang 124

3. Bùi Lưu Phi Khanh, chương Vô thức tập thể trong 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa

Đọc thêm:

Lược khảo nguyên mẫu anh hùng (Phần II)

Lược khảo nguyên mẫu anh hùng (Phần III)

Chuyên mục:Chưa phân loại

Về đứa trẻ trong tâm hồn chúng ta

images

Khái niệm về đứa trẻ bên trong (Child Within) đã trở thành một phần của nền văn hóa thế giới ít nhất là từ  2000 năm qua. Carl Jung gọi nó là “Đứa trẻ thần thánh” (Divine Child) còn Emmet Fox gọi là “Thần đồng” (Wonder Child). Hai nhà tâm liệu pháp Alice Miller và Donald Winnicott thì đề cập đến nó như là “chân ngã” (True self). Rokelle Lerner và những người khác trong chuyên khoa về các chất hóa học gây nghiện gọi nó là “đứa trẻ nội tâm” (Inner Child).

Thuật ngữ đứa trẻ bên trong là để nói về một phần của mỗi chúng ta trong tận sâu xa là tràn đầy sức sống, năng động, sáng tạo và mãn nguyện. Nó là chân ngã của chúng ta, là con người đích thực của chúng ta.

Với sự giúp đỡ vô ý thức của cha mẹ chúng ta và sự hỗ trợ của xã hội, hầu hết chúng ta đều chối bỏ đứa trẻ nội tâm của mình. Khi đứa trẻ bên trong này không được nuôi dưỡng, được cho phép tự do thể hiện, một cái ngã sai lệch hoặc lụy thuộc (co-dependent) sẽ xuất hiện. Chúng ta bắt đầu sống với tâm thế nạn nhân, và gặp khó khăn khi phải giải quyết các tổn thương tình cảm. Sự tích tụ dần dần của các vấn đề về tinh thần và cảm xúc chưa được giải quyết dứt điểm có thể dẫn đến các chứng bệnh mạn tính như lo lắng, sợ hãi, trống rỗng, bối rối và bất mãn.

Sự chối bỏ đứa trẻ bên trong và sự xuất hiện sau đó của một cái ngã lụy thuộc đặc biệt phổ biến ở trẻ em và người lớn – những người lớn lên trong các gia đình gặp trục trặc, phổ biến ở những gia đình có thành viên bị các bệnh mạn tính về thể chất hoặc tinh thần, quá nghiêm khắc, quá lạnh nhạt, hay các gia đình thiếu sự quan tâm, săn sóc con cái.

Tuy nhiên, vẫn có một giải pháp. Có một cách để khám phá và hàn gắn, bù đắp cho đứa trẻ bên trong và để giải thoát khỏi sự nô  lệ và đau khổ của cái tôi sai lạc, cái tôi lụy thuộc của chúng ta. Chân ngã của chúng ta thì tự nhiên, thân thiện, dễ thương, rộng lượng, và cởi mở. Chân ngã của chúng ta chấp nhận bản thân và người khác. Nó cảm nhận, cho dù các cảm xúc đó có thể là vui sướng hay đau khổ. Và nó thể hiện chúng ra bên ngoài. Chân ngã của chúng ta chấp nhận các cảm xúc mà không có phán xét hay sợ hãi, và cho phép chúng tồn tại như là một cách hợp lý để đánh giá và trân trọng các sự kiện trong cuộc sống.

Đứa trẻ trong chúng ta thì biểu cảm, quyết đoán, và sáng tạo. Nó có thể “giống như trẻ con” trong ý nghĩa cao quý nhất, trưởng thành và tiến hóa nhất của cụm từ này. Nó cần chơi đùa và vui vẻ.  Nhưng nó cũng dễ bị tổn thương, có lẽ vì nó quá cởi mở và tin tưởng. Nó tùy thuận, dâng hiến cho bản thân, cho những người khác và tối thượng là cho vũ trụ. Thế nhưng nó cũng mạnh mẽ trong ý nghĩa thực sự của cái gọi là sức mạnh. Nó đam mê một cách lành mạnh, hưởng thụ niềm vui, lạc thú khi được ai đó trao cho, hay khi được săn sóc. Nó cũng mở lòng đón nhận một phần tâm hồn rộng lớn và bí ẩn mà chúng ta gọi là vô thức của chúng tôi. Nó chú ý tới các thông điệp mà hằng ngày chúng ta nhận được từ vô thức, như các giấc mơ, các sự giằng xé nội tâm và bệnh tật.

Khi được là chính mình, nó sẽ tự do phát triển. Và trong khi cái ngã lụy thuộc của chúng ta lãng quên, thì chân ngã của chúng ta luôn nhớ về sự hiệp nhất của chúng ta với người khác và với vũ trụ. Tuy nhiên, đối với hầu hết chúng ta, chân ngã cũng là cái ngã riêng tư (private self). Khó mà biết được lý do tại sao chúng ta đã lựa chọn không chia sẻ [chân ngã]? Có lẽ đó là nỗi sợ hãi bị tổn thương hay bị từ chối. Một số người đã ước tính rằng chúng ta thể hiện ra con người thật của mình với những người khác trung bình chỉ khoảng 15 phút mỗi ngày. Dù bởi lý do gì đi nữa, chúng ta cũng có xu hướng giữ kín con người thật của mình.

Khi chúng ta “đến từ” con  người thật của mình hay khi chúng ta là con người thật của mình, chúng ta cảm thấy tràn đầy sức sống. Chúng ta có thể cảm thấy đau đớn dưới các hình thức như nỗi đau, [cảm giác] tội lỗi, buồn bã hay giận dữ, nhưng dù sao chúng ta vẫn cảm thấy niềm vui sống. Hay chúng ta có thể cảm thấy niềm vui, dưới các hình thức như mãn nguyện, hạnh phúc, cảm hứng hay thậm chí phúc lạc. Nhìn chung, chúng ta có xu hướng cảm nhận thực tại hiện tiền, đầy đủ, hoàn chỉnh, phù hợp, chân thực, toàn thể và lành mạnh. Chúng ta cảm thấy niềm vui sống.

Đứa trẻ trong ta chảy trôi tự nhiên từ thời điểm ta được sinh ra đời tới lúc ta chết đi và trong tất cả các kiếp sống và quá trình chuyển tiếp giữa các kiếp sống. Ta không phải làm bất cứ điều gì để được là con người thật của mình cả. Nó chỉ là nó. Nếu chúng ta cứ để cho nó được là nó, thì nó sẽ thể hiện bản thân nó mà không cần có nỗ lực cụ thể nào về phía chúng ta cả. Thật vậy, bất kỳ nỗ lực nào cũng thường là để từ chối nhận thức của chúng ta và biểu hiện của nó.

(Nguồn: Charles L. Whitfield M.D. – Healing the Child Within)

Chuyên mục:Chưa phân loại

Thử phân tích tâm lý Nina trong phim “Thiên Nga Đen”

“Thiên nga đen” (“Black Swan”, 2010) là một bộ phim tâm lý kinh dị của đạo diễn Darren Aronofsky với sự góp mặt của các diễn viên Natalie Portman, Vincent Cassel và Mila Kunis. Cốt truyện của phim xoay quanh việc lựa chọn vũ công chính cho một vở nhạc kịch mang tên Hồ thiên nga sắp được một vũ đoàn có uy tín tại New York sản xuất. Tác phẩm này đòi hỏi nữ vũ công ba lê phải diễn tả được sự ngây thơ trong sáng của Thiên nga trắng và cả sự dâm dục, hoang dại của Thiên nga đen.

Nhân vật chính của phim là một vũ công trẻ tên Nina Sayers (Portman). Cô hoàn toàn phù hợp để diễn vai Thiên nga trắng, trong khi đó một vũ công khác là Lily (Kunis) lại có những nét cá tính hợp với vai Thiên nga đen. Khi hai cô gái tranh đua cho vai diễn này, Nina đã bộc lộ ra phần tăm tối trong chính con người mình và bị nó làm chủ. Quá trình này đã được đạo diễn Aronofsky thể hiện bằng các trạng thái tâm lý thất thường của Nina và các tình tiết ảo giác đầy ghê rợn xảy đến với cô. Điều này không khỏi khiến cho nhiều khán giả cảm thấy băn khoăn khó hiểu. Nhưng nếu ta thử xem xét diễn biến tâm lý của Nina, cùng các mối quan hệ của cô (với mẹ, với bạn diễn Lily và với nhân vật Nữ hoàng thiên nga) bằng lăng kính của các nhà tâm lý học, thì có lẽ ta sẽ thấy câu chuyện trở nên mạch lạc và dễ hiểu hơn.

Nina với bà mẹ Erica – Ám ảnh của sự hoàn hảo

Theo những nghiên cứu tâm lý của học thuyết gắn bó (attachment theory) thì mối quan hệ mẹ con và ký ức thời thơ ấu ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách của trẻ em (Parkes et al., 1991). Vậy nên đầu tiên, hãy xem xét mối quan hệ giữa Nina và mẹ cô, bà Erica. Trước đây, bà từng là vũ công nhưng bà đã kết thúc sự nghiệp của mình ở tuổi 28 khi có thai Nina. Qua một cuộc nói chuyện với Nina đoạn giữa phim, Erica đã hé lộ rằng bà đã bị một tay đạo diễn sở khanh lợi dụng khi còn là vũ công. Vết thương tinh thần từ sự việc đó hẳn đã khiến bà trở nên ác cảm với đàn ông và quyết định sống một mình để nuôi con. Đối với những người đàn bà độc thân, toàn bộ mối quan tâm và tình yêu thương của họ là để dành cho đứa con (Daco, 2007), và Erica cũng không phải là ngoại lệ. Bà quan tâm, săn sóc cho Nina như một đứa trẻ: cắt móng tay cho cô; mua bánh ga-tô chúc mừng khi cô được chọn làm vũ công chính; không cho cô đi chơi đêm với Lily… Dường như chính sự chăm sóc quá mức cần thiết và cách nuôi dạy nghiêm khắc của bà dành cho Nina đã góp phần hình thành nên sự mỏng manh và yếu đuối của cô.

Một điểm nữa là, tại sao Nina lại luôn ám ảnh về sự hoàn hảo và khát khao có được vai diễn chính trong vở ba-lê Hồ thiên nga. Câu trả lời thông thường hay nghiêng về phía số mệnh: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính.” Nhưng dưới góc độ tâm lý học, thì có lẽ đây là hệ quả của sự khắt khe với việc học múa của Nina từ khi cô còn nhỏ, bởi bà muốn con gái mình sẽ đạt được những thành công trong sự nghiệp vũ công mà bà đã không có được. Đây có lẽ là tâm lý chung của các ông bố bà mẹ bất đắc chí trong sự nghiệp riêng. Họ áp đặt mong muốn của mình lên con cái, với hy vọng rằng thành công của chúng sẽ phần nào bù đắp, khỏa lấp nỗi thất vọng của họ về cuộc đời mình. Tuy nhiên, hẳn bạn đọc sẽ hỏi: Nếu vậy thì tại sao đến cuối phim, bà Erica đã ngăn cản Nina tham gia vở ba-lê? Câu trả lời sẽ được đề cập ở phần cuối của bài viết.

Nina với bạn diễn Lily – Ẩn ức tình dục

Tiếp theo, hãy xem xét mối quan hệ giữa Nina và Lily, vũ công cạnh tranh vai diễn chính với cô. Sự đối lập giữa hai người dường như đã được thể hiện từ ngay hai cái tên, sau đó là tính cách. Nếu như Nina trong sáng và yếu đuối thì Lily quyến rũ và tự tin. Nina luôn nỗ lực và mong mỏi đạt được vai diễn chính, còn Lily thì sống vô tư, phóng túng và không có quá nhiều ham muốn.

Nina luôn cảm thấy ghen tị và ganh đua với Lily bởi cô ta luôn được đạo diễn ưu ái nhờ sức hút quyến rũ của mình – điều mà Nina luôn khát khao nhưng chưa bao giờ thể hiện ra được. Thực ra, có một điều sâu sắc rất nhiều người không biết, đó là những nét cá tính, phẩm chất ta ngưỡng mộ nhất nơi người khác lại chính là thứ vốn đã sẵn có trong con người ta, chỉ có điều ta biết biết tới, chưa thừa nhận nó hay nó chưa có dịp được bộc lộ ra mà thôi (Chopra, 2004).

Với Nina, lần đầu tiên cô khám phá cơ thể và bản năng tính dục của mình là khi cô tự thủ dâm theo lời khuyên của đạo diễn Thomas (Cassel). Sau đó, lần thứ hai là được chính anh chàng này kích thích ham muốn trên sàn tập. Nhưng năng lượng tính dục (sexual energy) trong Nina chỉ thực sự được dâng trào khi cô quan hệ tình dục trong ảo giác với Lily. Người xem có thể bất ngờ với xu hướng tình dục của cô. Nhưng nếu để ý đến hành vi và yếu tố gia đình của Nina, ta sẽ thấy điều này có thể hiểu được. Từ việc cô cắn môi Thomas khi anh này bất ngờ hôn cô, đến việc cô nói rằng chưa bao giờ có bạn trai và quan hệ tình dục, hay việc cô không tiến tới ân ái với anh bạn trai mới quen sau khi hôn anh ta ở bên ngoài vũ trường mà bỏ về nhà ngay sau đó. Những chi tiết này khiến ta một lần nữa phải đặt câu hỏi nghi vấn về sự ảnh hưởng của bà Erica tới Nina, bởi rõ ràng Nina không thuộc dạng đồng tính sinh lý, tức hiện tượng phụ nữ có tính cách gần như nam giới – cứng cỏi, mạnh mẽ; cắt tóc ngắn; giọng ồm ồm;… (Daco, 2008). Phải chăng mối ác cảm dành cho đàn ông của mẹ cô dường như đã ngấm ngầm ảnh hưởng đến cô từ nhỏ? Để rồi khi trưởng thành, từ trong vô thức, cô đã cảm thấy không thể tin tưởng với đàn ông. Và khi không thể tiến đến với người đàn ông, thì theo các nhà tâm lý, người phụ nữ sẽ đi tìm sự nương tựa ở… người phụ nữ khác.

Tuy nhiên, có lẽ dưới áp lực xã hội, Nina chưa bao giờ dám thể hiện ra mình là người đồng tính. Chỉ đến khi cô uống viên thuốc lắc (ecstasy) mà Lily dụ dỗ, ẩn ức tình dục này mới lộ diện. Thường thì thuốc lắc khiến cho người ta trở nên hưng phấn, xã giao, hòa đồng hơn và dễ làm tình hơn. Theo các nhà nghiên cứu về khoa học thần kinh, thì đó là do thuốc lắc đã làm tăng hoạt động trao đổi tại các liên hợp thần kinh (synapses) dùng serotonin, norepinehrine và dopamine (McKim, 2007). Đồng thời nó làm suy yếu khả năng tự kiểm soát (self-control), tạo cơ hội cho cái ham muốn vốn bị ức chế từ đáy sâu vô thức được trồi lên lộ diện. Nó cũng tạo ảo giác như thật giúp người phê thuốc thỏa mãn mọi khát khao của mình. Nhờ đó, tác dụng của viên thuốc lắc đã trở thành yếu tố hỗ trợ hoàn hảo để Nina khơi dậy năng lượng tính dục trong mình.

Nina với “Thiên nga đen” – Bóng tối bủa vây

Đi cùng với sự trỗi dậy của dục tính là những ảo giác ngày càng ám ảnh dữ dội xảy ra với Nina: chảy máu móng tay nhiều hơn, các ngón chân dính liền vào nhau, từ vết xước ở lưng mọc ra đôi cánh của thiên nga đen, rập nát bàn tay bà mẹ vào cách cửa một cách tàn ác…  và lên đến đỉnh điểm là chộp lấy một mảnh gương vỡ và đâm vào bụng của kẻ giống hệt mình, mà trước đó Nina tưởng là Lily. Khán giả có thể phỏng đoán rằng đó là hiện tượng vong nhập, một bóng ma ác quỷ nào đó đã chiếm lấy thân thể cô để làm tất cả những việc kinh khủng và độc ác đó. Nhưng nếu một nhà tâm thần (psychiatrist) xem bộ phim này, thì với tất cả những triệu chứng ảo giác trên, có lẽ ông ta sẽ chẩn đoán Nina bị bệnh tâm thần phân biệt (schizophrenia).

Còn dưới góc độ nghệ thuật, tất cả những tình tiết đó có lẽ lại là những ẩn dụ tượng trưng ám chỉ cho sự ngày càng thắng thế của cái ác trong chính con người cô. Ông tổ của phân tâm học Sigmund Freud gọi nó là cái tôi bóng âm (shadow), tức phần năng lượng tiêu cực, xấu xa lẩn khuất trong “căn hầm” vô thức của tâm hồn. Điều khiến cái tôi bóng âm trở nên nguy hiểm bởi vì nó chưa bao giờ được đưa ánh sáng, được cái tôi ý thức công nhận. Và mọi sự trốn tránh, chối bỏ hay ức chế đều càng khiến bóng âm trở nên khó nắm bắt, thủ đoạn và nguy hiểm. Theo các nhà tâm liệu pháp (psychotherapist), chúng ta có thể đưa cái tôi bóng âm ra bề mặt ý thức bằng một nhãn quan tỉnh táo, cởi mở, khách quan mỗi khi cái ác (dù là nhỏ bé) trong mình lộ diện. Bởi chỉ với thái độ đầy tích cực ấy, thì chúng ta mới hiểu rõ bản chất của bóng âm. Và khi ánh sáng của ý thức và trí tuệ đã hiện diện, thì bóng âm cùng quyền lực của nó sẽ tan biến (Chopra, 2005).

Đáng tiếc là không ai chỉ cho Nina biết cô đang phải đương đầu với cái gì và chuyển hóa nó ra sao. Dường như là định mệnh, cô đã hoàn toàn bị cái tôi bóng âm kiểm soát mà không thể cưỡng lại. Tại sao nó lại mạnh mẽ thế? Xin thưa, nó dựa vào chính khát khao cực độ được tỏa sáng như là Nữ hoàng Thiên nga của Nina. Vậy nên, như ta thấy trong bộ phim, bất cứ điều gì ngăn cản nó đạt được mục tiêu, đều bị cái tôi bóng âm trong Nina gạt bỏ không thương tiếc, bất chấp mọi hậu quả. Trước sự thay đổi tâm tính ngày càng khác thường của đứa con, bà Erica, bằng trực giác của một người mẹ, dường như đã dự cảm được những điều không hay sẽ đến với con gái mình như đã xảy ra với Beth Macintyre, người đã trở nên thân tàn ma dại sau khi rời bỏ vai diễn “quỷ ám” này. Bà tìm mọi cách để ngăn cản Nina lại nhưng bất thành. Chỉ đến khi nhìn thấy máu rỉ ra từ bụng dưới của mình trước màn diễn cuối cùng của vở ba-lê, cô mới sực tỉnh nhận ra toàn bộ sự thật thì đã quá muộn. Cái giá Nina phải trả để đạt được khát khao tỏa sáng của cô có lẽ là quá đắt!

Nếu như trong vở ba-lê “Hồ thiên nga”, thiên nga trắng chết vì sự xảo quyệt của mụ phù thủy, thì ở ngoài đời, Nina đã bị “thiên nga đen”, cái ác nằm trong phần tăm tối của tâm hồn cô, giết chết. Cái kết đau xót của bộ phim như là lời cảnh tỉnh cho loài người về sự nguy hiểm của cái tôi bóng âm bên trong mỗi chúng ta. Cần phải luôn khéo léo nhận diện và chuyển hóa nó nếu chúng ta không muốn một ngày nào đó trở thành nạn nhân của chính mình.

Đỗ Hoàng Tùng

Tài liệu tham khảo:

Chopra, Deepak. Đối thoại nội tâm. Dịch từ cuốn The Spontaneous Fulfillment of Desire: Harnessing the Infinite Power of Coincidence. New York: Three Rivers Press, 2004.

Chopra, Deepak. Ý nghĩa huyền diệu của sự sống. Dịch từ The Book of Secrets: Unlocking the Hidden Dimensions of Your Life. Three Rivers Press, 2005.

Daco, Pierre. Những thành tựu lẫy lừng trong tâm lý học hiện đại (les prodigieuses victoires de la psychologie). Hà Nội: NXB Lao Động, 2008.

Parkes, Colin et al. Attachment Across the Life Cycle. Lodon: Routledge, 1991.

Chuyên mục:Chưa phân loại Thẻ:, , ,

Sơ lược về Tư duy Hệ thống

Tháng Mười Một 25, 2011 2 bình luận

TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC HÀNH ĐÍCH THỰC

Tư duy hệ thống xuất phát từ một bộ môn khoa học nghiêm túc gọi là Lý thuyết Hệ thống Tổng quát (General Systems Theory), được phát triển từ các nghiên cứu sinh học vào những năm 1920. Lý thuyết tập trung [nghiên cứu] thế giới tự nhiên, các hệ thống sống ở trong đó, và các quy luật phổ biến chi phối các hệ thống này. Tiền đề chính của nó là các quy luật như vậy, và một khi đã được biết đến, có thể được sử dụng như là một khung khái niệm (conceptual framework) để hiểu các mối quan hệ trong bất kỳ hệ thống nào, và để xử lý bất kỳ vấn đề hoặc thay đổi nào nằm trong hệ thống đó. Do đó, lý thuyết nhấn mạnh vào giá trị của việc xem một hệ thống như một toàn thể, của việc có được một cái nhìn về toàn bộ “thực thể” trước khi xem xét các bộ phận của nó. Chính sự nhấn mạnh này đã ảnh hưởng đến và định hình lên sự thực hành tư duy hệ thống, sự thực hành đích thực (authentic).

Tính đích thực là một điểm quan trọng bởi vì thuật ngữ tư duy hệ thống đã được sử dụng phổ biến – như là kết quả của vai trò quan trọng của sự thực hành trong Nguyên lý thứ Năm (The Fifth Discipline), cuốn sách bán chạy nhất của Peter Senge, và như là một thuật ngữ bị thay đổi ý nghĩa, nó thường bị lạm dụng một cách bừa bãi. Người ta sử dụng tư duy hệ thống (cũng như học tập hệ thống) để diễn đạt một loạt các ý nghĩa, từ bất cứ điều gì mà liên kết với một cái gì đó khác tới một loạt các chủ đề liên quan đến đào tạo, giáo dục, và có sự thay đổi thành công. Sự suy rộng trường nghĩa quá mức này không chỉ làm suy yếu sức mạnh khác biệt của tư duy hệ thống, mà còn khiến chúng ta phải tự hỏi rằng liệu hầu hết mọi người biết thuật ngữ “hệ thống” thực ra có nghĩa là gì hay không.

Để làm rõ vấn đề ngay từ đầu, dưới đây là các định nghĩa cần thiết cho việc sử dụng tư duy hệ thống đích thực.

ĐỊNH NGHĨA: HỆ THỐNG VÀ TƯ DUY HỆ THỐNG

➥ Hệ thống – Một tập hợp của các thành phần làm việc cùng nhau vì toàn bộ mục tiêu của toàn thể.

➥ Tư duy hệ thống – Một cách nhìn nhận mới mẻ và dựng lên mô hình trong tâm mình (mentally frame) những gì chúng ta thấy trên thế giới; một thế giới quan và cách suy nghĩ mà theo đó chúng ta thấy các thực thể hay đơn vị lần đầu tiên như một toàn thể, cùng sự điều chỉnh và mối quan hệ của nó với môi trường như là các mối quan tâm hàng đầu.

Trong định nghĩa trên, mối quan hệ giữa tư duy hệ thống và lý thuyết hệ thống tổng quát là quá rõ rệt. Đã có điều gì xẩy đến với lý thuyết này? Nó chưa bao giờ trở nên phổ biến trong nhận thức chung của cộng đồng (mainstream consciousness), và do đó trở thành một nghệ thuật bị thất truyền — ít nhất là cho đến bây giờ.

Nguồn: Stephen G. Haines, Manager’s Pocket Guide to Systems Thinking and Learning

Chuyên mục:Chưa phân loại